Các loại trà Nhật – Phần 2 – Trà Matcha (抹茶)

Du nhập từ Trung Quốc vào Nhật Bản đầu thế kỷ thứ IX, trà nhanh chóng trở thành đồ uống mọi tầng lớp ở Nhật ưa chuộng. Sau này Nhật Bản đã nâng nghi thức dùng trà lên thành nghệ thuật. Chadou (茶道 = trà đạo) ra đời vào thế kỷ XVI.

Matcha (抹茶  theo từ Hán Việt gọi là Mạt trà, tức trà xoa (xay) mịn hoặc gọi là trà bột) được làm từ lá trà Tencha (碾茶 ). Tencha là loại lá trà thu hoạch từ vườn trà được che giống như Ngọc Lộ. Sau đó người ta cho tencha vào cối đá và xay thành bột mịn, gọi là matcha. Chỉ dùng nguyên liệu thô là tencha xay mới được gọi là matcha. Các thứ trà khác chỉ gọi là trà bột (粉茶).

Trình tự làm trà Matcha truyền thống có khoảng 12 bước, sơ bộ có thể tóm tắt như sau:

  1. Sau khi thu hái, lá trà được hấp trong vòng 20 phút để ngăn ngừa quá trình oxi hóa.
  2. Tiếp théo là quá trình làm khô, Lá được thổi qua chuỗi 4 đến 5 các ống gió cao chừng 5 đến 6m. Các lá trà khi đó được làm mát và làm giảm độ ẩm.
  3. Bước tiếp theo lá trà được đưa vào lò sấy tencha gọi là tencha-ro 碾茶炉, trong đó nó sẽ trải qua hai quá trình sấy trên băng chuyền bươc một gọi là ara-kanso 荒乾燥 (ở 150 ° C), sau đó là quá trình sấy chính hon-kanso 本乾燥 ở 100oC.
  4. Sorting:  phần cuống và phần gân lá sẽ được phân loại với phần lá bằng cách cắt và sàng.
  5. Bước tiếp theo là quá trình sấy ở nhiệt độ (neri-kanso 煉り乾燥) 60 ° để đưa lá về có độ ẩm khoảng 4 đến 5%.
  6. Các lá trà đã được cắt và sấy gọi là Tencha, người ta đem tencha đi nghiền để có được Matcha, các hạt mạt trà phải được nghiền rất nhỏ ở mức 4 microns.

 

Straw shelf-type Gyokuro field
Vườn trồng trà Gyokuro – Ngọc Lộ

 

Cách làm trà Matcha rất phưc tạp, không đơn thuần là xay trà mịn

Sưu tầm và biên dịch từ Internet